Newton đã xây dựng lý thuyết
cơ học và
quang học cổ điển và sáng tạo ra
giải tích nhiều năm trước
Gottfried Leibniz. Tuy nhiên ông đã không công bố công trình về giải tích trước
Leibniz. Điều này đã gây nên một cuộc tranh cãi giữa Anh và lục địa
châu Âusuốt nhiều thập kỷ về việc ai đã sáng tạo ra giải tích trước. Newton đã
phát hiện ra định lý nhị thức đúng cho các tích của phân số, nhưng ông
đã để cho
John Walliscông bố. Newton đã tìm ra một công thức cho vận tốc âm thanh, nhưng
không phù hợp với kết quả thí nghiệm của ông. Lý do cho sự sai lệch này
nằm ở sự giãn nở đoạn nhiệt, một khái niệm chưa được biết đến thời bấy
giờ. Kết quả của Newton thấp hơn
γ½ lần thực tế, với
γ là tỷ lệ các nhiệt dung của
không khí.
Theo quyển
Opticks, mà Newton đã chần chừ trong việc xuất bản mãi cho đến khi Hooke mất, Newton đã quan sát thấy
ánh sáng trắng bị chia thành phổ nhiều
màu sắc, khi đi qua
lăng kính (
thuỷ tinh của lăng kính có
chiết suấtthay đổi tùy màu). Quan điểm hạt về ánh sáng của Newton đã xuất phát từ
các thí nghiệm mà ông đã làm với lăng kính ở Cambridge. Ông thấy các
ảnh sau lăng kính có hình bầu dục chứ không tròn như lý thuyết ánh sáng
thời bấy giờ tiên đoán. Ông cũng đã lần đầu tiên quan sát thấy các vòng
giao thoa mà ngày nay gọi là
vòng Newton,
một bằng chứng của tính chất sóng của ánh sáng mà Newton đã không công
nhận. Newton đã cho rằng ánh sáng đi nhanh hơn trong thuỷ tinh, một kết
luận trái với lý thuyết sóng ánh sáng của
Christiaan Huygens.
Newton cũng xây dựng một hệ thống
hoá học trong mục 31 cuối quyển
Opticks. Đây cũng là lý thuyết hạt, các "
nguyên tố" được coi như các sự sắp xếp khác nhau của những nguyên tử nhỏ và cứng như các quả
bi-a. Ông giải thích
phản ứng hoá học dựa vào
ái lực giữa các thành phần tham gia phản ứng. Cuối đời (sau
1678) ông thực hiện rất nhiều các thí nghiệm
hoá học vô cơ mà không ra kết quả gì.
Newton rất nhạy cảm với các phản bác đối với các lý thuyết của ông,
thậm chí đến mức không xuất bản các công trình cho đến tận sau khi
người hay phản bác ông nhất là Hooke mất. Quyển
Philosophiae Naturalis Principia Mathematicaphải chờ sự thuyết phục của Halley mới ra đời. Ông tỏ ra ngày càng lập
dị vào cuối đời khi thực hiện các phản ứng hoá học và cùng lúc xác định
ngày tháng cho các sự kiện trong
Kinh Thánh. Sau khi Newton qua đời, người ta tìm thấy một lượng lớn
thuỷ ngân trong cơ thể của ông, có thể bị nhiễm trong lúc làm thí nghiệm. Điều này hoàn toàn có thể giải thích sự lập dị của Newton.
Newton đã một mình đóng góp cho
khoa họcnhiều hơn bất cứ một nhân vật nào trong lịch sử của loài người. Ông đã
vượt trên tất cả những bộ óc khoa học lớn của thế giới cổ đại, tạo nên
một miêu tả cho vũ trụ không tự mâu thuẫn, đẹp và phù hợp với trực giác
hơn mọi lý thuyết có trước. Newton đưa ra cụ thể các nguyên lý của
phương pháp khoa học có thể ứng dụng tổng quát vào mọi lĩnh vực của
khoa học. Đây là điều tương phản lớn so với các phương pháp riêng biệt
cho mỗi lĩnh vực của Aristoteles và Aquinas trước đó.
Tuy các phương pháp của Newton rất
lôgic, ông vẫn tin vào sự tồn tại của
Chúa. Ông tin là sự đẹp đẽ hoàn hảo theo trật tự của tự nhiên phải là sản phẩm của một
Đấng Tạo hoá siêu nhân.
Ông cho rằng Chúa tồn tại mọi nơi và mọi lúc. Theo ông, Chúa sẽ thỉnh
thoảng nhúng tay vào sự vận hồi của thế gian để giữ gìn trật tự.
Cũng có các nhà triết học trước như Galileo và
John Philoponussử dụng phương pháp thực nghiệm, nhưng Newton là người đầu tiên định
nghĩa cụ thể và hệ thống cách sử dụng phương pháp này. Phương pháp của
ông cân bằng giữa lý thuyết và thực nghiệm, giữa
toán học và
cơ học.
Ông toán học hoá mọi khoa học về tự nhiên, đơn giản hoá chúng thành các
bước chặt chẽ, tổng quát và hợp lý, tạo nên sự bắt đầu của Kỷ nguyên
Suy luận. Những nguyên lý mà Newton đưa ra do đó vẫn giữ nguyên giá trị
cho đến thời đại ngày nay. Sau khi ông ra đi, những phương pháp của ông
đã mang lại những thành tựu khoa học lớn gấp bội những gì mà ông có thể
tưởng tượng lúc sinh thời. Các thành quả này là nền tảng cho nền công
nghệ mà chúng ta được hưởng ngày nay.
Không ngoa dụ chút nào khi nói rằng Newton là danh nhân quan trọng
nhất đóng góp cho sự phát triển của khoa học hiện đại. Như nhà thơ
Alexander Pope đã viết:
Nature and Nature's laws lay hid in nightGod said, Let Newton be!and all was light
| Tự nhiên im lìm trong bóng tốiChúa bảo rằng Newton ra đời!Và ánh sáng bừng lên khắp lối |