Sự nghiệpIsaac Newton sinh ra trong một gia đình nông dân. May mắn cho nhân loại, Newton không làm ruộng giỏi nên được đưa đến
Đại học Cambridge để trở thành
luật sư. Tại Cambridge, Newton bị ấn tượng mạnh từ
Euclid, tuy rằng tư duy của ông cũng bị ảnh hưởng bởi trường phái của
Roger Bacon và
René Descartes.
Một đợt dịch bệnh đã khiến trường Cambridge đóng cửa và trong thời gian
ở nhà, Newton đã có những phát kiến khoa học quan trọng, dù chúng không
được công bố ngay.
Những người có ảnh hưởng đến việc công bố các công trình của Newton là
Robert Hooke và
Edmond Halley. Sau một cuộc tranh luận về chủ đề
quỹ đạo của một
hạt khi bay từ
vũ trụ vào
Trái Đất với Hooke, Newton đã bị cuốn hút vào việc sử dụng
định luật vạn vật hấp dẫn và
cơ học của ông trong tính toán quỹ đạo
Johannes Kepler. Những kết quả này hấp dẫn Halley và ông đã thuyết phục được Newton xuất bản chúng. Từ
tháng 8 năm
1684 đến
mùa xuân năm
1688, Newton hoàn thành tác phẩm, mà sau này trở thành một trong những công trình nền tảng quan trọng nhất cho
vật lý của mọi thời đại, cuốn
Philosophiae Naturalis Principia Mathematica (Các Nguyên lý Toán học của Triết lý về Tự nhiên).
Trong quyển I của tác phẩm này, Newton giới thiệu các
định nghĩa và ba
định luật của chuyển động thường được biết với tên gọi sau này là
Định luật Newton. Quyển II trình bày các
phương pháp luận khoa học mới của Newton thay thế cho triết lý
Descartes. Quyển cuối cùng là các ứng dụng của lý thuyết
động lực học của ông, trong đó có sự giải thích về
thủy triều và lý thuyết về sự chuyển động của
Mặt Trăng. Để kiểm chứng lý thuyết về vạn vật hấp dẫn của ông, Newton đã hỏi
nhà thiên văn John Flamsteed kiểm tra xem
Sao Thổ có chuyển động chậm lại mỗi lần đi gần
Sao Mộc không. Flamsteed đã rất sửng sốt nhận ra hiệu ứng này có thật và đo đạc phù hợp với các tính toán của Newton. Các
phương trìnhcủa Newton được củng cố thêm bằng kết quả quan sát về hình dạng bẹt của
Trái Đất tại hai cực, thay vì lồi ra tại hai cực như đã tiên đoán bởi
trường phái Descartes. Phương trình của Newton cũng miêu tả được gần
đúng chuyển động Mặt Trăng, và tiên đoán chính xác thời điểm quay lại
của
sao chổi Halley.
Trong các tính toán về hình dạng của một vật ít gây lực cản nhất khi
nằm trong dòng chảy của chất lỏng hay chất khí, Newton cũng đã viết ra
và giải được bài toán
giải tích biến phân đầu tiên của thế giới.
Newton sáng tạo ra một phương pháp khoa học rất tổng quát. Ông trình
bày phương pháp luận của ông thành bốn quy tắc của lý luận khoa học.
Các quy tắc này được phát biểu trong quyển
Philosophiae Naturalis Principia Mathematica như sau:
- Các hiện tượng tự nhiên phải được giải thích bằng một hệ tối giản các quy luật đúng, vừa đủ và chặt chẽ.
- Các hiện tượng tự nhiên giống nhau phải có cùng nguyên nhân như nhau.
- Các tính chất của vật chất là như nhau trong toàn vũ trụ.
- Một nhận định rút ra từ quan sát tự nhiên chỉ được coi là đúng cho đến khi có một thực nghiệm khác mâu thuẫn với nó.
Bốn quy tắc súc tích và tổng quát cho nghiên cứu khoa học này đã là
một cuộc cách mạng về tư duy thực sự vào thời điểm bấy giờ. Thực hiện
các quy tắc này, Newton đã hình thành được các định luật tổng quát của
tự nhiên và giải thích được gần như tất cả các bài toán khoa học vào
thời của ông. Newton còn đi xa hơn việc chỉ đưa ra các quy tắc cho lý
luận, ông đã miêu tả cách áp dụng chúng trong việc giải quyết một bài
toán cụ thể. Phương pháp giải tích mà ông sáng tạo vượt trội các phương
pháp mang tính triết lý hơn là tính chính xác khoa học của
Aristoteles và
Thomas Aquinas. Newton đã hoàn thiện phương pháp thực nghiệm của
Galileo Galilei, tạo ra phương pháp tổng hợp vẫn còn được sử dụng cho đến ngày nay trong khoa học. Những câu chữ sau đây trong quyển
Opticks(Quang học) của ông có thể dễ dàng bị nhầm lẫn với trình bày hiện đại
của phương pháp nghiên cứu thời nay, nếu Newton dùng từ "khoa học" thay
cho "triết lý về tự nhiên":
Cũng như trong toán học, trong triết lý về tự nhiên, việc nghiên
cứu các vấn đề hóc búa cần thực hiện bằng phương pháp phân tích và tổng
hợp. Nó bao gồm làm thí nghiệm, quan sát, đưa ra những kết luận tổng
quát, từ đó suy diễn. Phương pháp này sẽ giúp ta đi từ các hợp chất
phức tạp đến nguyên tố, đi từ chuyển động đến các lực tạo ra nó; và
tổng quát là từ các hiện tượng đến nguyên nhân, từ nguyên nhân riêng lẻ
đến nguyên nhân tổng quát, cho đến khi lý luận dừng lại ở mức tổng quát
nhất. Tổng hợp lại các nguyên nhân chúng ta đã khám phá ra thành các
nguyên lý, chúng ta có thể sử dụng chúng để giải thích các hiện tượng
hệ quả.